Theo The 4th Avenue Cafe
Tôi không có duyên với những cuốn sách bị cấm phát hành (dù là vì lý do gì). Truyện kể năm 2000 hay Thời của thánh thần tôi đều không mua được bản in và chỉ có thể đọc trên internet. Nhưng có một trường hợp ngoại lệ, một cuốn sách tuyệt vời đến mức khi nhận được bản in với chữ ký tặng của những người góp công xuất bản nó ở ngay giữa Sài Gòn, tôi đã quên sạch sự vô duyên của mình trước đây. Đó là cuốn Trại súc vật của George Orwell.
Phần lớn trong chúng ta chẳng biết gì về Orwell. Có thể đây là lần đầu tiên bạn nhìn thấy cái tên này. Đó là điều bình thường.
Việt Nam là đất nước nơi người ta thường lầm tưởng câu nói nổi tiếng “Mọi quyền lực đều có xu hướng tha hóa và quyền lực tuyệt đối thì tha hóa tuyệt đối” (All power tends to corrupt and absolute power corrupts absolutely) là của Nelson Mandela. Trong số những người người hiếm hoi biết tác giả của cách ngôn vĩ đại ấy là John Dalberg-Acton hầu như không có ai để ý rằng ông còn nói một câu khác: “Chủ nghĩa xã hội dẫn tới chế độ nô lệ” (Socialism leads to slavery – một số nguồn dẫn là “means” thay vì “leads”).
Và tác phẩm của George Orwell, tác phẩm chưa bao giờ có hy vọng được xuất bản chính thống tại Việt Nam, sẽ cho bạn biết tại sao và làm thế nào mà chủ nghĩa xã hội lại đồng nghĩa với chế độ nô lệ.
Nếu bạn đã kịp google trong lúc phân vân có nên đọc tiếp bài đánh giá này hay không, hẳn bạn đã biết Orwell là người thế nào. Nghe có vẻ khó tin, nhưng nhà văn này thực sự là một người theo chủ nghĩa xã hội, chỉ có điều, như chính ông bộc bạch trong lời đề tựa ở bản dịch tiếng Ukraine, “trở thành người theo trường phái xã hội vì căm thù cách người ta đàn áp và khinh thường tầng lớp công nhân công nghiệp nghèo khổ chứ không phải vì thán phục xã hội theo kế hoạch hoá về mặt lý luận.”
Đó là cơ sở để Orwell, một nhà văn (đồng thời là nhà báo và một số loại nhà khác), thẳng tay châm biếm Liên Bang Xô Viết đương thời vốn rất huyền bí (một cách tốt đẹp) trong mắt nhiều người phương Tây và những mặt trái của nó bằng một tiểu thuyết đã được dịch ra gần 70 ngôn ngữ và không bao giờ vắng mặt trong các bảng xếp hạng văn chương thế kỷ XX.
Điều khiến cho bất kỳ độc giả nào cũng phải nghiêng mình thán phục là tác giả đã dự đoán quá đúng những bất ổn bên trong xã hội tự như Liên Xô: giai cấp thống trị mới hình thành, người dân bị bóc lột, trí thức hèn nhát không dám lên tiếng,…
Cần phải nhớ rằng cuốn sách được xuất bản từ năm 1945, khi mà Liên Xô vừa vươn tới đỉnh cao bằng chiến thắng trước Đức Quốc Xã và chế độ quân phiệt Nhật Bản. Orwell mất năm 1950, tức là ông cũng không bao giờ có cơ hội được thấy Liên Xô bộc lộ những điểm yếu của nó rồi dần dần suy thoái.
Nhưng diễn biến của câu chuyện, từ việc hai con lợn Snowball và Napoleon chuyên quyền cho tới các vụ xử tử, từ sự hèn nhát của con lừa Benjamin cho tới sự ngu ngốc đáng thương của ngựa Boxer, từ bài “quốc ca” bị cấm cho đến những thỏa hiệp giữa lũ lợn với loài người,… Tất cả khắc họa chính xác những mặt trái của một xã hội đã đi chệch khỏi mục tiêu tốt đẹp ban đầu của nó – như thể đây là một cuốn Đường về nô lệ dạng văn chương.
Không có gì lạ khi cuốn sách bị cấm xuất bản ở Việt Nam. Theo ngôn ngữ “lề phải” thì nó “quá nhạy cảm”. Nhưng dù bạn ở lề nào thì tôi cũng thành thật khuyên bạn, như một vị tiền bối tôi cực kỳ kính trọng đã khuyên tôi, Trại súc vật là một cuốn sách tuyệt đối không thể bỏ qua.
Cuốn sách sẽ không kêu gọi bạn đứng lên làm một cuộc cách mạng mới, tàn khốc và đẫm máu như những gì Snowball và Napoleon đã làm. Tất nhiên, nó cũng chẳng khuyên can bạn điều gì. Chỉ có lương tâm của bạn tự lên tiếng, rằng đừng ngây thơ như Boxer, đừng hèn nhát như Benjamin, đừng vô cảm như những con vật trong trại và tất nhiên, đừng như lũ lợn.
Orwell làm báo trong nhiều năm, và ông thấm nhuần nguyên tắc của nghề báo: nói ra sự thật và để cho cộng đồng tự đánh giá và quyết định.
Hãy đọc sách, sau đó phản ứng thế nào là quyền của bạn.
Trại Súc Vật (Animal Farm)
George Orwell
Nguồn: http://vnthuquan.net
Lời tựa
Trại Súc Vật được in ở Anh ngày 17 tháng 8 năm 1945 và một năm sau thì được in ở Mĩ.
Trước đó George Orwell đã cho xuất bản 9 đầu sách với tổng số bản in cả ở Anh và Mĩ là
195 500 cuốn. Sau chiến tranh thế giới thứ II do thiếu giấy nên số lượng bản in hạn chế,
tuy vậy cho đến khi Orwell mất vào tháng giêng năm 1950 đã có tất cả 25 500 cuốn Trại
Súc Vật được in ở Anh và 590 000 cuốn được in ở Mĩ. Điều đó nói lên thành công to lớn
và ngay lập tức của tác phẩm. Sinh thời Orwell tác phẩm này đã được dịch ra tất cả các
ngôn ngữ chính của châu Âu cũng như các thứ tiếng như Telugu (một dân tộc thuộc bắc
Ấn Độ), Ba Tư, Aixlen và Ukraine. Sau hơn 50 năm kể từ lần xuất bản đầu tiên, tác phẩm
đã được dịch ra 68 thứ tiếng trên thế giới và thuờng xuyên được tái bản. Trong lần bình
chọn 100 tác phẩm hay nhất trong thế kỉ XX do nhà sách Random House tiến hành, Trại
Súc Vật được xếp thứ 31.
Nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh của George Orwell chúng tôi xin giới thiệu Trại Súc
Vật, một trong hai tác phẩm nổi tiếng nhất của ông với lời tựa cho lần xuất bản bằng
tiếng Ukraine do chính Orwell viết. Lời tựa này được Orwell viết bằng tiếng Anh (bản
gốc đã bị thất lạc), theo đề nghị của người tổ chức dịch thuật và phân phối tác phẩm này
cho những người Ukraine chạy trốn chế độ Xô viết và sống trong các trại tạm cư do quân
đội Anh và Mĩ thiết lập trên đất Đức. Lời tựa được dịch sang tiếng Ukraine dành cho lần
xuất bản đầu tiên vào năm 1947, nhà sách Penguin Classic trong lần xuất bản năm 2000
đã cho dịch lại và in kèm với lời giới thiệu của Malcolm Bradbury.
Sau tác phẩm Trại Súc Vật, George Orwell còn viết một tác phẩm nổi tiếng 1984. Tác
phẩm này nằm ở vị trí 13 trong bảng tổng sắp của nhà sách Randomhouse đã nói ở trên.
Tin rằng một ngày gần đây tác phẩm bất hủ này cũng sẽ ra mắt độc giả tiếng Việt.
Phạm Minh Ngọc
Tôi được yêu cầu viết lời giới thiệu cho bản dịch tác phẩm Trại Súc Vật sang tiếng
Ukraine. Tôi nhận thức rõ rằng tôi đang viết cho những độc giả mà tôi không có một chút
hiểu biết nào và họ cũng chưa từng có cơ hội tìm hiểu tôi.
Trong lời giới thiệu chắc chắn các độc giả muốn tôi kể về quá trình sáng tác tác phẩm
Trại Súc Vật, nhưng trước tiên tôi muốn tự kể về mình và những trải nghiệm đã dẫn tôi
đến quan điểm chính trị hiện nay.
Tôi sinh năm 1903 tại Ấn Độ. Lúc đó cha tôi là một viên chức trong bộ máy hành chính
Anh quốc ở đấy, gia đình tôi thuộc tầng lớp trung lưu gồm các quân nhân, tu sĩ, viên chức
chính phủ, giáo sư, luật sư, bác sĩ v.v... Tôi tốt nghiệp trung học tại Eton, một trường công lập thuộc loại đắt nhất nước Anh thời đó. Nhưng tôi được vào học ở đây là do được
nhận học bổng chứ cha tôi không thể có tiền để gửi tôi vào học những trường như thế.
Ngay sau khi thôi học (lúc đó tôi chưa đủ 20 tuổi) tôi đi Miến Điện và tham gia lực lượng
cảnh sát Hoàng gia tại đây. Tôi làm ở đó năm năm. Việc này hoàn toàn không hợp với tôi,
tôi trở nên căm ghét chủ nghĩa đế quốc mặc dù lúc đó tinh thần quốc gia ở Miến Điện
chưa cao và quan hệ giữa người Anh và người Miến cũng chưa đến nỗi nào. Sau khi về
lại Anh quốc vào năm 1927 tôi giải ngũ và bắt đầu viết văn: thời gian đầu không có thành
công đáng kể nào. Trong những năm 1928-1929 tôi sống ở Paris, chuyên viết truyện ngắn
và tiểu thuyết nhưng không có nhà xuất bản nào chịu in (tôi đã xé bỏ hết). Những năm
sau đó tôi phải tay làm hàm nhai, đôi khi phải nhịn đói. Chỉ từ năm 1934 tới nay tôi mới
sống được bằng ngòi bút. Trong thời gian này tôi đã sống nhiều tháng giữa những người
nghèo khổ và bất hảo, ăn xin và ăn cắp tại những khu vực tồi tệ nhất của những khu phố
nghèo. Lúc đầu tôi phải nhập bọn với họ vì không có tiền, nhưng sau này tôi lại rất thích
lối sống đó. Tôi đã dành nhiều tháng trời để nghiên cứu đời sống thợ mỏ ở miền Bắc
nước Anh. Cho đến năm 1930 nói chung tôi vẫn chưa phải là người theo trường phái xã
hội. Thực ra tôi vẫn chưa xác định được quan điểm chính trị của mình.Tôi trở thành
người theo trường phái xã hội vì căm thù cách người ta đàn áp và khinh thường tầng lớp
công nhân công nghiệp nghèo khổ chứ không phải vì thán phục xã hội theo kế hoạch hoá
về mặt về mặt lí luận.
Tôi lập gia đình năm 1936. Cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha nổ ra ngay trong những ngày
đó. Hai vợ chồng tôi đều muốn đi Tây Ban Nha để chiến đấu cho chính phủ nước này.
Chúng tôi sẵn sàng lên đường, sáu tháng sau đó, khi tôi viết xong cuốn sách mà tôi đã
khởi sự từ trước. Tôi đã ở mặt trận Aragon gần Huesca sáu tháng liền, cho đến khi bị một
phát đạn bắn tỉa xuyên qua cổ.
Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến những người ngoại quốc hoàn toàn không hiểu được
cuộc đấu tranh giữa các đảng phái ủng hộ chính phủ Tây Ban Nha. Do một loạt sự tình cờ,
tôi không tham gia các Binh đoàn Quốc tế như đa số những người ngoại quốc khác mà
chiến đấu trong hàng ngũ của lực lượng vũ trang POUM, đảng của những người theo
phái Troskist Tây Ban Nha.
Vì vậy giữa năm 1947 khi những người Cộng sản nắm được quyền kiểm soát (hay một
phần quyền kiểm soát) chính phủ Tây Ban Nha và bắt đầu săn đuổi những người Troskist
thì cả hai vợ chồng tôi đều trở thành nạn nhân. Chúng tôi may mắn đi khỏi được Tây Ban
Nha, thậm chí không bị bắt lần nào. Nhiều bạn bè của chúng tôi đã bị bắn bỏ, một số bị tù
đày nhiều năm, số khác thì mất tích.
Những cuộc săn người ở Tây Ban Nha xảy ra đồng thời với những cuộc thanh trừng vĩ
đại ở Liên Xô. Thực chất những vụ thanh trừng ở Tây Ban Nha và ở Nga chỉ là một (gọi
là âm mưu với bọn phát xít) và nếu nói về Tây Ban Nha thì tôi có đầy đủ cơ sở để tin
rằng đấy là những vụ kết án oan. Qua đó tôi đã nhận được một bài học đắt giá: nó dạy tôi
rằng bộ máy tuyên truyền của chế độ toàn trị dễ dàng lèo lái dư luận ở những nước dân
chủ đến mức nào. Hai vợ chồng tôi đã chứng kiến những người vô tội bị quẳng vào nhà giam chỉ vì họ bị
nghi là không theo đường lối chính thống. Khi trở về Anh chúng tôi thấy rất nhiều người
thạo tin và nhạy bén tin vào những bản án kì quặc về âm mưu phản bội và phá hoại do
báo chí tường thuật từ những vụ án ở Moscow.
Và tôi thực sự hiểu ra ảnh hưởng tiêu cực của huyền thoại Xô viết đối với phong trào xã
hội ở phương Tây.
Đến đây tôi xin dừng lại một chút để trình bày thái độ của tôi đối với chế độ Xô viết.
Tôi chưa đến thăm Nga bao giờ và hiểu biết của tôi về nước Nga chỉ là kiến thức do thu
lượm được từ báo chí, sách vở. Ngay cả nếu có đủ sức tôi cũng sẽ không can thiệp vào
công việc nội bộ của Liên Xô: tôi sẽ không kết án Stalin và các cộng sự của ông ta chỉ vì
những phương pháp dã man và phi dân chủ của họ. Có thể là trong những điều kiện như
thế, dù có muốn, họ cũng không thể hành động khác được.
Nhưng mặt khác đối với tôi điều cực kì quan trọng là nhân dân Tây Âu phải nhận rõ chế
độ Xô viết như nó đang là. Từ năm 1930 tôi nhìn thấy rất ít bằng chứng là Liên Xô đang
tiến đến cái có thể thực sự gọi là Chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, có những chỉ dấu rõ ràng
rằng xã hội ấy đang chuyển hoá thành xã hội có tôn ti trật tự và những người cầm quyền,
cũng như mọi giai cấp cầm quyền khác, chẳng thấy có lí do gì để rời bỏ quyền lực đã làm
tôi choáng váng. Hơn nữa công nhân và trí thức ở những nước như Anh quốc lại không
hiểu rằng Liên Xô hôm nay đã khác hẳn Liên Xô năm 1917. Một phần vì họ không chịu
hiểu (nghĩa là họ muốn tin rằng có một nước xã hội chủ nghĩa quả thực đang tồn tại ở đâu
đó), một phần vì họ quen với cuộc sống tự do và ôn hoà, họ không biết gì về chủ nghĩa
toàn trị.
Cần phải nhớ rằng nước Anh chưa phải là nước hoàn toàn dân chủ. Đây vẫn là nước tư
bản với những đặc quyền đặc lợi giai cấp (ngay cả bây giờ, sau cuộc chiến tranh có xu
hướng làm cho mọi người bình đẳng hơn) và sự chênh lệch gay gắt về tài sản. Nhưng dù
sao ở đây người dân đã có cuộc sống không có những xáo trộn lớn suốt mấy trăm năm
qua, luật pháp tương đối công chính, tin tức và số liệu của chính quyền có thể tin được và
cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng là người ta có thể giữ và ủng hộ quan điểm
của thiểu số mà không bị bất kì đe dọa chết người nào. Trong hoàn cảnh như vậy người ta
không thể nào hiểu được những hiện tượng như trại tập trung, cưỡng ép di cư hàng lọat,
bỏ tù không cần xét xử, kiểm duyệt báo chí v.v... Tất cả những điều đọc được trên báo chí
về những nước như Liên Xô được tự động phiên dịch sang các thuật ngữ của nước Anh
và họ ngây thơ tin ngay những điều dối trá của bộ máy tuyên truyền của chế độ toàn trị
đó. Cho đến năm 1939, và cả sau này nữa, đa số người Anh không hiểu được thực chất
chế độ phát-xít ở Đức và nay họ cũng có ảo tưởng tương tự như vậy đối với Liên Xô.
Điều đó đặc biệt có hại đối với phong trào Xã hội Anh và gây hậu quả xấu đối với chính
sách đối ngoại của nước Anh. Theo tôi, tin rằng nước Nga là nước xã hội chủ nghĩa và
mọi hành vi của những người cầm quyền ở đó đều nên được tha thứ, nếu không nói là
phải theo là sự phản bội đối với lí tưởng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy trong mười năm gần
đây tôi đã đi đến kết luận rằng việc phá tan huyền thoại Xô viết là việc làm vô cùng cần
thiết nếu ta muốn tái sinh phong trào xã hội chủ nghĩa. Ngay sau khi trở về từ Tây Ban Nha tôi đã nghĩ đến việc vạch trần huyền thoại Xô viết
dưới dạng một câu chuyện dễ hiểu và dễ dịch sang các thứ tiếng khác. Nhưng chi tiết của
câu chuyện vẫn chưa có, cho đến một hôm (khi đó tôi sống ở nông thôn) tôi trông thấy
một cậu bé, khoảng mười tuổi, đang đánh một chiếc xe ngựa to trên một con đường hẹp,
cứ mỗi lần con ngựa định quay ngang là cậu bé lại ra roi. Trong đầu tôi bỗng loé lên ý
nghĩ rằng nếu loài vật nhận thức được sức mạnh của chúng thì con người không thể nào
còn điều khiển được chúng nữa và con người bóc lột loài vật cũng hệt như các tầng lớp
hữu sản bóc lột giai cấp vô sản vậy.
Tôi tiến hành phân tích học thuyết của Marx trên quan điểm của súc vật. Đối với loài vật
thì rõ ràng là luận điểm về đấu tranh giai cấp giữa người với người chỉ là một sự lừa mị,
vì mỗi khi cần bóc lột súc vật là tất cả mọi người lại đoàn kết với nhau để chống lại
chúng: cuộc đấu tranh thực sự là cuộc đấu tranh giữa loài vật và loài người. Từ đây việc
tạo ra tác phẩm không còn khó nữa. Tôi bận nhiều việc khác, không có thì giờ, cho nên
mãi đến năm 1943 tôi vẫn chưa bắt đầu viết truyện này và cuối cùng tôi đã đưa thêm một
số sự kiện, thí dụ như Hội nghị Teheran là sự kiện xảy ra trong thời gian tôi viết. Như vậy
là đường hướng chính của câu chuyện đã nằm trong đầu tôi suốt sáu năm trước khi tôi
thực sự đưa nó lên giấy.
Tôi không có ý bình luận tác phẩm, nếu tác phẩm không có sức thuyết phục thì có nghĩa
là tác phẩm ấy đã thất bại. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh hai điểm: thứ nhất, mặc dù nhiều
tình tiết được lấy từ lịch sử của cuộc Cách mạng Nga nhưng chúng chỉ có ý nghĩa tượng
trưng và trật tự đã được thay đổi cho cân đối với cốt truyện. Điểm thứ hai thường bị các
nhà phê bình bỏ qua, nguyên nhân có thể là vì tôi chưa nhấn đúng mức. Nhiều độc giả
sau khi đọc xong có cảm tưởng rằng cuốn sách đã dừng lại ở sự hoà giải hoàn toàn giữa
loài lợn và loài người. Nhưng đấy không phải là ý của tôi, ngược lại, tôi cố ý kết thúc ở
chỗ chỉ rõ sự bất hoà, vì tôi viết chuyện này ngay sau Hội nghị Teheran, mọi người lúc đó
đều nghĩ rằng Hội nghị này sẽ thiết lập một mối quan hệ tốt đẹp nhất có thể giữa Liên Xô
và phương Tây. Cá nhân tôi không tin rằng quan hệ tốt đẹp đó có thể kéo dài được lâu, và
như các sự kiện cho thấy, tôi đã không lầm.
Tôi không biết phải nói gì thêm nữa. Nếu độc giả nào quan tâm đến cá nhân tôi thì tôi xin
nói thêm rằng tôi đã goá vợ, hiện tôi đang sống với con trai ba tuổi, tôi là nhà văn chuyên
nghiệp nhưng từ khi bắt đầu cuộc chiến thì tôi làm việc chủ yếu như một phóng viên.
Tôi thường viết cho tờ Tribune, một tờ tuần báo đại diện cho phái tả của đảng Lao động.
Các cuốn sách sau đây của tôi có thể được độc giả quan tâm: Những ngày ở Miến điện
(câu chuyện về Miến điện), Tưởng nhớ Catalonia (viết về những trải nghiệm của tôi trong
cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha) và tác phẩm Phê bình (các bài viết về văn học đương đại
Anh, được viết chủ yếu từ quan điểm xã hội học hơn là quan điểm thuần tuý văn chương).
1947
Chương 1
Phạm Minh Ngọc dịch từ nguyên bản tiếng Anh, có tham khảo bản Nga văn của Лара
Беспалова -2001г.
Ông Jones, chủ Điền Trang đóng cửa chuồng gà, nhưng vì say quá nên quên đóng cửa
chuồng lợn. Với chiếc đèn bão trong tay, đung đưa, khi sang phải, khi sang trái, ông lảo
đảo đi qua sân, tới cửa sau thì lấy chân đạp ủng ra và bước vào bếp để uống nốt vại bia
cuối cùng trong ngày rồi leo lên giường, nơi vợ ông, bà Jones đã ngáy khò khò.
Ngay khi đèn trong phòng ngủ vừa tắt, đây đó bỗng dậy lên những tiếng sột soạt, thì thầm.
Ngày hôm đó có tin đồn rằng Thủ Lĩnh, một con lợn đực trắng, từng được huy chương
trong một cuộc triển lãm, đêm hôm trước có một giấc mơ kì lạ và muốn kể cho mọi loài
cùng nghe. Chúng thoả thuận với nhau là ngay sau khi ông Jones đi ngủ sẽ tập trung
trong nhà kho lớn. Tất cả các con vật trong trang trại đều kính trọng Thủ Lĩnh (chúng gọi
nó như vậy, mặc dù khi đi dự triển lãm nó mang tên Willingdon Điển Trai) và sẵn sàng hi
sinh giấc ngủ để được nghe nó nói chuyện.
Thủ Lĩnh ngồi trên một cái bục có nệm rơm phía trong cùng nhà kho, dưới ánh sáng của
chiếc đèn bão treo trên xà nhà. Nó đã mười hai tuổi, mặc dù thời gian gần đây có béo
thêm, với những chiếc răng nanh thò cả ra, nhưng trông nó vẫn có vẻ tiên phong đạo cốt,
phúc hậu. Những con khác bắt đầu lục tục kéo tới, mỗi con tìm một chỗ ngồi thuận lợi.
Đầu tiên là ba con chó Bluebell, Jessie và Pincher, sau đó là lũ lợn; chúng ngồi trên đống
rơm phía trước bục. Lũ gà leo lên bậu cửa sổ, đám bồ câu đậu trên rui mè, bọn bò và cừu
nằm phía sau lũ lợn và bắt đầu công việc nhai lại của chúng. Hai con ngựa kéo xe tên là
Chiến Sĩ và Bà Mập cùng vào, từ từ lại gần cái bục, trước mỗi bước chúng đều thận trọng
quan sát để không giẫm bẹp một con thú nhỏ nào ở bên dưới lớp rơm. Bà Mập, một con
ngựa cái trung niên hiền lành, thân hình đã sồ sề vì bốn lần sinh nở. Chiến Sĩ, một con
tuấn mã cao đến gần hai mét và khoẻ bằng hai con ngựa khác. Vì có một vệt trắng dọc
sống mũi nên trông nó có vẻ đần, thực ra cu cậu cũng không thuộc loại thông minh,
nhưng bù lại, nó được các con khác tôn trọng vì tính kiên định và hay lam hay làm. Sau
đó là đến con dê trắng tên là Mona và con lừa tên là Benjamin. Benjamin là con vật già
nhất bọn, nhưng cũng là con xấu tính nhất. Benjamin ít nói, nhưng hễ mở miệng là y như
rằng nó tìm cách giễu cợt, ví dụ có lần nó tuyên bố rằng Thượng Đế tạo cho nó cái đuôi
để đuổi ruồi, nhưng giá đừng có cả đuôi lẫn ruồi thì còn thích hơn. Nó là con vật duy nhất
không bao giờ cười. Nếu hỏi tại sao thì nó bảo: chẳng có lí do gì. Mặc dù vậy và tuy
không nói ra nhưng nó rất trung thành với Chiến Sĩ, chủ nhật nào hai con cũng yên lặng
gặm cỏ bên nhau ở bãi giữ ngựa phía sau khu vườn.
Hai con ngựa vừa nằm xuống thì bầy vịt con mồ côi lao vào nhà kho, chúng vừa kêu
chiếp chiếp khe khẽ vừa chạy loanh quanh, mong tìm một chỗ an toàn. Bà Mập lấy chân
trước khoanh thành một khu cho chúng, lũ vịt con mau chóng chui vào đó rồi ngủ thiếp đi
lúc nào không hay. Ngay trước khi buổi nói chuyện bắt đầu thì Mollie, một ả ngựa cái dốt
nát, màu trắng, chuyên kéo chiếc xe nhỏ của ông Jones, vừa đi vừa nhai một cục đường,
mới õng ẹo bước vào. Nó lập tức chiếm ngay vị trí phía trước cái bục và lắc lư bờm để
mong những con khác chú ý đến dải ruy băng đỏ trang điểm trên đó. Cuối cùng là một
con mèo, nó nhìn quanh và vẫn như mọi khi, cố tìm cho mình một chỗ thật ấm, rồi chen vào nằm giữa Chiến Sĩ và Bà Mập, chị chàng sung sướng phát ra những tiếng gừ… gừ…
trong cổ họng, mặc Thủ Lĩnh muốn nói gì thì nói.
Thế là tất cả các con vật trong Điền Trang đã có mặt đầy đủ, chỉ trừ con quạ Moses, nó
ngủ trên hàng rào ngay bên ngoài cửa sau. Khi Thủ Lĩnh thấy tất cả đã an vị và sẵn sàng
lắng nghe thì húng hắng ho lấy giọng và bắt đầu:
"Thưa các đồng chí! Như các đồng chí đã biết, đêm qua tôi có một giấc mơ kì lạ. Nhưng
tôi sẽ nói chuyện đó sau. Đầu tiên tôi muốn nói với các đồng chí một số việc hoàn toàn
khác. Thưa các đồng chí, tôi nghĩ rằng tôi không ở lại với các đồng chí được bao lâu nữa,
vì vậy tôi cho rằng trước khi chết mình phải có trách nhiệm chia sẻ với các đồng chí
những kinh nghiệm mà tôi đã tích lũy được trong suốt cuộc đời mình. Tôi đã có một cuộc
đời phải nói là dài và tôi đã suy nghĩ rất nhiều khi nằm một mình trong chuồng, tôi nghĩ
rằng tôi có thể nói là tôi hiểu đời không thua bất kì con vật nào trên thế gian này. Đó là
điều tôi muốn nói với các đồng chí.
Bây giờ, thưa các đồng chí, thực chất đời sống của chúng ta là gì? Chúng ta hãy nhìn
thẳng vào sự thật. Cuộc đời của chúng ta là khổ sai, khốn nạn và yểu mệnh. Chúng ta
sinh ra, chúng ta được một khẩu phần vừa đủ để khỏi chết vì đói, những con nào có thể
làm thì phải làm đến kiệt sức và khi không làm được nữa thì chúng ta bị giết một cách vô
cùng dã man, tàn bạo. Không có con vật nào ở nước Anh này biết đến hạnh phúc và niềm
vui ngay khi vừa tròn một tuổi. Không có con vật nào ở nước Anh này được tự do. Cuộc
sống của loài vật là cuộc sống nghèo khổ và nô lệ: sự thật trần trụi là như thế đấy.
Nhưng đấy có phải là qui luật của tự nhiên không? Chả lẽ nước ta lại nghèo đến độ không
nuôi nổi những động vật sống ở đây ư? Không, ngàn vạn lần không, thưa các đống chí.
Đất Anh màu mỡ, thời tiết thuận hòa, thừa sức cung cấp thức ăn cho một số lượng động
vật lớn hơn hiện nay rất nhiều. Chỉ nội cái trang trại của chúng ta đã có thể nuôi được
một tá ngựa, hai chục bò, hàng trăm cừu và tất cả đều có thể sống trong tiện nghi và
phẩm giá mà nay chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi. Thế thì tại sao chúng ta lại cứ
tiếp tục sống trong điều kiện khốn nạn thế này? Bởi vì hầu như toàn bộ những gì chúng ta
làm ra đều bị con người chiếm đoạt hết. Đấy là nguyên nhân tất cả các vấn nạn của chúng
ta. Nói ngắn gọn bằng một từ là: Con Người. Con Người là kẻ thù của chúng ta. Nếu
không còn người nữa thì chúng ta vĩnh viễn sẽ không còn bị đói, không còn phải làm
công việc khổ sai nữa.
Người là giống vật duy nhất chỉ ăn mà không làm. Người không làm ra sữa, không đẻ ra
trứng, người không thể kéo cày, không chạy nhanh bằng thỏ. Nhưng nó lại là chủ của tất
cả chúng ta. Nó bắt chúng ta làm việc, cướp lấy mọi thành quả lao động của chúng ta, chỉ
cho chúng ta ăn vừa đủ để không chết đói mà thôi. Chúng ta phải cày bừa, phân chúng ta
bón ruộng, thế mà chúng ta có gì? Chẳng có gì ngoài da bọc xương. Các đồng chí bò
đang ngồi trước mặt tôi đây, năm vừa qua các đồng chí cho bao nhiêu lít sữa? Thế số sữa
mà đáng lẽ dùng để nuôi các chú bò con ấy đi đâu? Kẻ thù của chúng ta đã uống đến giọt
cuối cùng. Còn các bạn gà, năm vừa qua các bạn đã đẻ bao nhiêu trứng, trong đó có bao
nhiêu quả nở thành gà con? Lão Jones và gia nhân đã mang ra chợ bán lấy tiền hết rồi. Bà
Mập, bốn đứa con của bà, niềm vui và chốn nương tựa lúc tuổi cao bóng xế của bà đâu
rồi? Chúng đã bị đem bán khi vừa tròn một tuổi, bà sẽ không bao giờ được gặp lại chúng nữa. Một khẩu phần ăn chết đói và cái chuồng, công cho bốn lần vượt cạn cũng như công
việc đồng áng của bà chỉ có thế mà thôi!
Nhưng dù khốn nạn như thế chúng ta cũng có được sống trọn tuổi trời đâu. Riêng tôi thì
chẳng có gì phải phàn nàn, vì thực ra tôi đã gặp may. Năm nay tôi đã mười hai tuổi rồi,
tôi có hơn bốn trăm đứa con. Trời đất sinh ra giống lợn là như thế. Nhưng cuối cùng thì
cũng chẳng có con vật nào thoát khỏi lưỡi dao oan nghiệt. Tất cả các bạn lợn thịt đang
ngồi trước mặt tôi đây, trong vòng một năm nữa tất cả các bạn sẽ phải từ giã cõi đời trên
tấm phản mổ. Tất cả chúng ta, bò, lợn, gà, cừu, không ai trong chúng ta tránh khỏi cái kết
cục khủng khiếp đó. Số phận của loài ngựa và loài chó cũng chẳng tốt đẹp hơn. Đồng chí
Chiến Sĩ nữa, ngay khi cơ bắp của đồng chí vừa yếu đi thì lão Jones sẽ bán đồng chí cho
lão mổ ngựa, hắn sẽ cắt cổ đồng chí rồi hầm dừ cho lũ chó săn ăn. Những con chó già,
rụng răng sẽ bị lão Jones buộc một viên gạch vào cổ và quăng xuống hồ.
Thưa các đồng chí, chả lẽ các đồng chí không thấy rằng tất cả mọi khổ đau trong cuộc
đời này của chúng ta chính là do con người mà ra hay sao? Nếu chúng ta loại bỏ được
Con Người thì mọi thành quả lao động của chúng ta sẽ thuộc về chúng ta. Nếu làm được
thế thì chỉ sau một đêm chúng ta sẽ trở nên giàu có và tự do. Thế thì chúng ta phải làm
gì? Làm việc, không kể ngày đêm, cả bằng sức mạnh và tài năng để lật đổ ách thống trị
của loài người! Khởi nghĩa! Các đồng chí - đấy là thông điệp của tôi. Tôi không biết khi
nào thì cuộc Khởi Nghĩa sẽ xảy ra, có thể trong tuần tới, cũng có thể là một trăm năm nữa,
nhưng tôi biết rõ, như tôi đang nhìn thấy những cọng rơm bên dưới chân tôi đây rằng sớm
muộn gì rồi công bằng cũng sẽ được thiết lập. Các đồng chí hãy nghĩ đến điều đó trong
suốt cuộc đời còn lại ngắn ngủi của mình! Ngoài ra, hãy chuyển thông điệp của tôi đến
các thế hệ tương lai, để các thế hệ đó tiếp tục cuộc đấu tranh cho đến thắng lợi cuối cùng.
Các đồng chí hãy kiên định. Không được dao động. Đừng có nghe theo lời tuyên truyền
rằng Con Người và các loài vật cùng có chung quyền lợi, rằng sự thịnh vượng của loài
này cũng là sự thịnh vượng của loài kia. Bịp bợm hết. Con Người không quan tâm đến
quyền lợi của ai, nó chỉ quan tâm đến chính nó mà thôi. Các loài vật chúng ta phải đoàn
kết nhất trí, phải có tinh thần đồng chí trong cuộc đấu tranh này. Tất cả loài người đều là
kẻ thù. Tất cả các con vật đều là đồng chí."
Đúng lúc đó thì tiếng ồn ào nổi lên. Chả là trong khi Thủ Lĩnh đang nói thì có bốn con
chuột cống bò ra khỏi hang và cũng đến nghe. Mấy con chó đã trông thấy và may là lũ
chuột kịp chạy vào hang, không thì đã mất mạng rồi. Thủ Lĩnh phải giơ chân lên đề nghị
im lặng.
"Thưa các đồng chí", nó nói, "có một vấn đề cần phải giải quyết. Những con thú hoang
như chuột cống và thỏ, chúng là bạn hay là kẻ thù của chúng ta? Đề nghị biểu quyết. Tôi
xin đặt vấn đề với hội nghị như sau: Chuột có phải là đồng chí không?"
Cuộc bỏ phiếu được thực hiện ngay, đa số tán thành coi chuột là đồng chí. Chỉ có bốn
phiếu chống, đấy là ba con chó và một con mèo, nhưng sau này mới phát hiện ra rằng
mèo ta bỏ cả phiếu thuận lẫn phiếu chống. Thủ Lĩnh tiếp tục: "Tôi xin nói thêm một chút nữa. Tôi chỉ muốn nhắc lại rằng nhiệm vụ của các đồng chí là
phải luôn luôn tranh đấu với Con Người và tất cả những gì do nó tạo ra. Tất cả những loài
hai chân đều là kẻ thù. Tất cả những loài bốn chân hoặc có cánh đều là bạn. Các đồng chí
lại phải luôn luôn nhớ rằng chúng ta không được bắt chước loài người trong cuộc đấu
tranh chống lại chúng. Ngay cả khi đã chiến thắng, chúng ta cũng không được tập nhiễm
các thói xấu của chúng. Không có con vật nào được sống trong nhà, ngủ trên giường, mặc
quần áo, uống rượu, hút thuốc, sử dụng tiền hoặc tham gia buôn bán. Tất cả phong tục
của loài người đều là có hại. Quan trọng nhất là không con nào được áp chế con nào.
Khoẻ cũng như yếu, thông minh tài trí cũng như bình thường, tất cả chúng ta đều là anh
em. Không được giết hại lẫn nhau. Mọi con vật sinh ra đều bình đẳng.
Và bây giờ, thưa các đồng chí, tôi sẽ kể cho các đồng chí nghe giấc mơ của tôi tối hôm
qua. Tôi không thể mô tả được. Tôi mơ thấy trái đất khi con người đã biến đi rồi. Giấc
mơ này làm sống dậy trong trí tôi một việc như sau:
"Cách đây đã lâu, khi tôi còn là một chú lợn nhỏ, mẹ tôi cùng với các cô bác lợn khác
thường hát một bài hát có từ ngày xưa: họ chỉ nhớ nhạc điệu và ba từ đầu tiên thôi. Lúc
bé tôi cũng thuộc nhạc điệu, nhưng tôi đã quên từ lâu. Thế mà đêm qua, trong giấc mơ,
tôi đã nhớ lại tất cả, hơn thế nữa, tôi còn nhớ lại được cả lời bài hát, tôi tin chắc rằng
ngày xưa các loài vật đã từng hát như thế, nhưng sau này họ quên và mấy thế hệ gần đây
hoàn toàn không biết hát nữa. Bây giờ tôi sẽ hát cho các đồng chí nghe. Tôi đã già, giọng
không còn trong, nhưng khi tôi dạy nhạc điệu cho các đồng chí thì các đồng chí sẽ hát
hay hơn. Bài hát tên là: Súc Sinh Anh quốc".
Thủ lĩnh già hắng giọng và bắt đầu hát. Giọng đúng là đã khàn, nhưng nó hát cũng không
đến nỗi tồi, giai điệu hỗn hợp giữa kiểu "Clementine" và "La Cucuracha". Lời bài hát như
sau:
"Súc sinh Anh quốc
Súc sinh muôn nơi
Lắng nghe niềm vui mới
Của một ngày mai sáng tươi
Đồng cỏ núi đồi
Mãi mãi xanh ngời
Khi lũ người
Không còn là ách trên vai
Chạc, chạc không còn
Cương, cương cũng không Roi vọt, chửi mắng
Chỉ là quá khứ tối tăm
Ta giàu, ta có
Vườn cây, đồng lúa
Đậu, sắn, ngô, khoai
Là của chúng ta từ đây
Mặt trời sáng soi
Nước càng ngọt tươi
Gió mát muôn đời
Là ngày tự do tương lai
Súc sinh Anh quốc
Súc sinh muôn nơi
Lắng nghe niềm vui mới
Của một ngày mai sáng tươi" 1
Bài hát đã làm cho lũ súc vật kích động tột độ. Một số con kịp bắt theo ngay trước khi
Thủ lĩnh hát hết bài. Ngay những con ngu dốt nhất cũng nắm được nhạc điệu và thuộc
mấy từ, còn những con thông minh hơn, như lũ chó và lũ lợn, thì thuộc lòng cả bài ngay
trong vài phút đầu. Sau vài lần tập, cả trang trại đã cùng đồng ca được bài Súc Sinh Anh
quốc. Mỗi loài hát một giọng, bò rống, chó sủa, cừu kêu be be, ngựa hí, vịt kêu cạp cạp.
Chúng khoái bài hát đến độ hát liền một mạch năm lần và chúng có thể hát mãi như thế
suốt đêm nếu không bị ngăn trở.
Đáng tiếc là tiềng ồn ào đã làm ông Jones thức giấc, ông bước xuống giường vì tin chắc
là có một con cáo đã lọt vào sân. Ông tìm khẩu súng vẫn thường dựng ở góc phòng và
bắn một lọat đạn ghém lên trời. Có mấy viên găm vào tường nhà kho và cuộc họp mau
chóng kết thúc. Từng con quay về chỗ ngủ của mình. Gia cầm nhảy lên ổ, còn gia súc thì
nằm xuống đống rơm và chẳng bao lâu sau cả trang trại đã chìm vào giấc ngủ.
--------------------------------
1 Nguyên văn hai bài thơ " Súc Sinh Anh quốc":
Beasts of England
Beasts of England, beasts of Ireland, Beasts of every land and clime,
Hearken to my joyful tidings
Of the golden future time.
Soon or late the day is coming,
Tyrant Man shall be o'erthrown,
And the fruitful fields of England
Shall be trod by beasts alone.
Rings shall vanish from our noses,
And the harness from our back,
Bit and spur shall rust forever,
Cruel whips no more shall crack.
Riches more than mind can picture,
Wheat and barley, oats and hay,
Clover, beans and mangel-wurzels
Shall be ours upon that day.
Bright will shine the fields of England,
Purer shall its waters be,
Sweeter yet shall blow its breezes
On the day that sets us free.
For that day we all must labour,
Though we die before it break;
Cows and horses, geese and turkeys,
All must toil for freedom's sake.
Beasts of England, beasts of Ireland,
Beasts of every land and clime, Hearken well and spread my tidings
Of the golden future time.
Chương 2
Ba đêm sau Thũ Lĩnh già bình thản ra đi. Xác nó được chôn ở cuối khu vườn.
Chuyện đó xảy ra vào đầu tháng ba. Lũ súc vật tăng cường hoạt động ngầm liên tục trong
ba tháng tiếp theo. Bài diễn văn của Thủ Lĩnh đã tạo ra một quan niệm sống hoàn toàn
mới nơi những con thông minh. Chúng không biết khi nào thì cuộc Khởi Nghĩa mà Thủ
Lĩnh tiên đoán sẽ xảy ra, chúng cũng không nghĩ sẽ được chứng kiến cảnh tượng đó,
nhưng chúng biết rõ một điều là có trách nhiệm tiến hành công việc chuẩn bị. Công tác
giáo dục và tổ chức dĩ nhiên là được giao cho bọn lợn vì chúng vốn được coi là loài thông
minh nhất. Hai con lợn đực giống trẻ tên là Tuyết Tròn và Napoleon đang được ông
Jones vỗ béo để bán là hai con nổi tiếng nhất. Napoleon là một con lợn đực, trông hung
dữ, giống Berkshire duy nhất trong Điền Trang, nó vốn kiệm lời nhưng nổi tiếng kiên
nhẫn. Tuyết Tròn thì hoạt bát, dẻo miệng hơn, có nhiều sáng kiến hơn, nhưng đa số cho
rằng tính cách không được sâu sắc bằng Napoleon. Số còn lại đều là lợn thịt. Con nổi bật
nhất trong số đó tên là Chỉ Điểm, một con lợn nhỏ, khá béo nhưng lanh lợi, hai má phính,
đôi mắt đảo lia lịa còn giọng nói thì the thé. Nó là một diễn giả có hạng, khi cần chứng
minh một vấn đề khó khăn thì nó nhảy qua nhảy lại và vẫy đuôi, trông rất thuyết phục.
Đồn rằng nó có thể biến đen thành trắng dễ như chơi.
Ba con này đã phát triển học thuyết của Thủ Lĩnh già thành một hệ thống triết học hoàn
chỉnh mà chúng gọi là Súc Sinh Kinh. Đêm nào cũng vậy, cứ sau khi ông Jones đi ngủ là
chúng bí mật tụ họp trong nhà kho để giảng giải cho những con khác các luận điểm chủ
yếu của Súc Sinh Kinh. Thoạt đầu quả là có nhiều khó khăn vì lũ súc vật tỏ ra hờ hững và
rất ngu dốt. Có con nói rằng có nghĩa vụ trung thành với ông Jones mà nó gọi là ông chủ,
có con còn phát biểu một cách thiếu ý thức: "Ông Jones nuôi chúng ta. Không có ông ấy
thì ta chết đói rã họng ra ấy chứ". Một số con còn đặt câu hỏi đại loại: "Quan tâm đến
chuyện sau khi ta chết để làm gì?" hoặc "Đằng nào thì cuộc khởi nghĩa cũng sẽ diễn ra, ta
làm hay không làm thì cũng thế thôi". Mấy con lợn phải khó khăn lắm mới thuyết phục
được chúng rằng những luận điệu như thế là hoàn toàn trái với tinh thần của Súc Sinh
Kinh. Nhưng những câu hỏi ngu xuẩn nhất lại là của ả ngựa cái màu trắng tên là Mollie.
Đầu tiên ả hỏi Tuyết Tròn:
"Thế sau khi khởi nghĩa thì có đường không?"
"Không", Tuyết Tròn ngắt lời, "Chúng ta không sản xuất đường. Thực ra đồng chí sẽ
không cần đường. Đồng chí sẽ có đủ yến mạch và rơm mà đồng chí cần."
"Thế tôi có còn được đeo ruy băng nữa không?"
"Đồng chí", Tuyết Tròn nói, "Cái ruy băng mà đồng chí yêu thích đó chính là biểu tượng
của tinh thần nô lệ. Chả lẽ đồng chí không thấy rằng tự do đáng quí hơn cái ruy băng hay
sao?"
Mollie đồng ý, nhưng trông nó có vẻ không tin tưởng lắm. Bọn lợn còn gặp nhiều khó khăn hơn trong việc bác bỏ những luận điệu do con quạ
Moses đưa ra. Moses là con vật cưng của ông Jones, nó chuyên đi rình rập nhưng lại nhớ
rất nhiều chuyện cổ tích và cũng là một diễn giả có hạng. Nó bảo rằng có biết một vương
quốc thần thoại tên là Núi Xôi, nơi linh hồn các con vật sẽ tới sau khi chầu trời. Moses
nói rằng vùng đó nằm không xa, sau các đám mây. Ở đó cả bảy ngày trong tuần đều là
chủ nhật hết, còn cỏ ba lá thì xanh quanh năm, đường phèn và bánh khô thì mọc ngay
trên bờ dậu. Các con vật rất ghét Moses vì nó chỉ nói chứ không làm, nhưng có vài con
lại tin là có miền cực lạc Núi Xôi của nó, thành ra lũ lợn phải vất vả lắm mới thuyết phục
được chúng rằng không thể nào có một miền như thế được.
Tông đồ tin cậy nhất của chúng là hai con ngựa kéo xe, Chiến Sĩ và Bà Mập. Hai con này
vốn dĩ chậm hiểu nhưng khi chúng đã coi lũ lợn là sư phụ rồi thì nuốt lấy từng lời giáo
huấn rồi giảng giải lại cho những con khác bằng thứ ngôn ngữ dễ hiểu hơn. Hai con này
không bỏ bất cứ một buổi họp nào và thường là những kẻ cầm càng bài Súc Sinh Anh
quốc mỗi khi cuộc họp kết thúc.
Cuộc Khởi Nghĩa xảy ra sớm hơn và dễ dàng hơn chúng tưởng rất nhiều. Trong những
năm gần đây, ông Jones, vốn là một điền chủ giỏi và nghiêm khắc, đã gặp nhiều sự cố.
Sau khi bị mất nhiều tiền vào việc kiện tụng, ông trở nên ủ dột và uống nhiều rượu hơn
bình thường. Ông thường ngồi cả ngày trên chiếc ghế bành trong bếp, vừa đọc báo vừa
uống bia, thỉnh thoảng lại cho con Moses những mẩu vỏ bánh mì chấm bia. Gia nhân
thành ra một lũ lười nhác, trộm cắp, đồng nội thành bãi đất hoang, nhà cửa dột nát, rào
dậu nghiêng đổ, súc vật thường xuyên bị bỏ đói.
Đã sang tháng sáu, đây là mùa cắt cỏ. Trước ngày Hạ chí 2 , hôm ấy là thứ bảy, ông
Jones đi Willingdon và uống đến say khướt tại nhà hàng Sư Tử Đỏ, trưa chủ nhật mới về.
Bọn gia nhân thì vội vàng vắt sữa từ sáng sớm rồi bỏ đi săn thỏ mà không thèm cho súc
vật ăn tí nào. Về đến nhà ông Jones leo ngay lên ghế sopha trong phòng khách rồi lấy tờ
"News of the World" 3 phủ lên mặt và ngủ, súc vật bị bỏ đói cho đến tận chiều tối. Cuối
cùng chúng hết chịu nổi. Một con bò cái húc đổ cửa nhà kho và thế là tất cả mọi con vật
cùng lao vào các thùng chứa ngũ cốc. Đúng lúc đó thì ông Jones thức giấc. Ông và bốn
người làm công lập tức vồ lấy roi và lao vào kho, họ cứ thế quật túi bụi lên lưng lũ súc
vật khốn nạn. Lũ súc vật đói khát không thể chịu đựng thêm được nữa. Dù không hẹn
trước, chúng cùng xông lên và lao thẳng vào những kẻ áp bức. Ông Jones và gia nhân bất
ngờ bị đá, bị húc từ mọi hướng. Tình hình trở nên không thể kiểm soát được. Họ chưa
từng gặp chuyện như thế bao giờ, cuộc nổi loạn bất thình lình của lũ súc vật mà trước đây
muốn đánh đập, muốn hành hạ thế nào mặc lòng, đã làm họ hoảng loạn. Họ chỉ cầm cự
được vài phút rồi phải bỏ chạy. Cả năm người vội vã lao ra con đường nhỏ để chạy lên
đường làng, trong khi lũ súc vật hào hứng truy kích theo.
Qua cửa sổ phòng ngủ, bà Jones đã nhìn thấy hết mọi chuyện, bà vội vàng cho một vài
thứ vào cái túi vải rồi luồn theo cửa sau trốn khỏi Điền Trang. Moses cũng kịp lao ra khỏi
tổ rồi vừa kêu vừa bay theo bà chủ. Lũ súc vật sau khi truy kích thắng lợi đã quay về và
đóng cổng. Thế là, cuộc Khởi Nghĩa đã toàn thắng, ông Jones bị đuổi đi, Điền Trang là
của bọn súc sinh ngay trước khi chúng kịp hiểu mọi chuyện. Ban đầu chúng không tin là số phận đã mỉm cười với chúng. Việc làm đầu tiên của chúng
là tập trung lại và chạy vòng quanh khu nhà để tìm xem có còn sót người nào bên trong
không, sau đó chúng lao vào các toà nhà để phá hủy tàn tích của chế độ cai trị độc tài của
ông Jones. Kho công cụ ở phía cuối chuồng ngựa bị đập phá, thế là bao nhiêu hàm thiếc
ngựa, vòng đeo mũi bò, xích chó, dao hoạn lợn và cừu bị ném hết xuống giếng. Còn dây
cương, dây thòng lọng, các miếng da che mắt ngựa, giỏ thức ăn cũ thường treo ở cổ ngựa
thì bị quăng vào đống lửa giữa sân. Những chiếc roi cũng cùng chung số phận. Mọi con
vật cùng nhảy cỡn lên khi trông thấy những cái roi bắt lửa. Tuyết Tròn còn vất luôn vào
lửa những cái ruy băng vẫn thường buộc trên bờm và đuôi ngựa mỗi kì hội chợ.
"Ruy băng", nó tuyên bố, "phải được coi là quần áo, cũng là biểu tượng của loài người.
Mọi con vật đều phải khỏa thân."
Nghe thấy thế Chiến Sĩ vội tháo cái mũ rơm mà nó thường mang trong mùa hè để ngăn
ruồi khỏi lọt vào tai và ném vào lửa.
Chẳng mấy chốc lũ súc vật đã phá hủy tất cả những thứ có liên quan đến ông Jones.
Napoleon dẫn cả bọn vào kho và phát gấp đôi khẩu phần ăn hàng ngày, mỗi con chó được
hai bánh qui bơ. Sau đó chúng hát bài Súc Sinh Anh quốc bảy lần liền, rồi cả bọn đi ngủ,
chưa bao giờ chúng ngủ ngon như hôm ấy.
Như thường lệ, chúng thức dậy khi trời vừa rạng sáng, nhưng chúng lập tức nhớ ngay đến
sự kiện vinh quang vừa xảy ra và thế là cả bọn cùng lao ra đồng cỏ. Trên đồng cỏ có một
cái gò nhỏ, từ đây có thể nhìn thấy hầu khắp trang trại. Lũ súc vật chạy lên đó và ngắm
nhìn khung cảnh trong ánh hồng của một ngày mới. Tất cả, tất cả những gì trước mắt kia
giờ đây đã thuộc về chúng! Trong trạng thái ngất ngây, chúng cứ chạy quanh, chạy quanh
mãi, thỉnh thoảng chúng lại nhảy lên vì sung sướng! Chúng lăn mình trên sương ướt,
chúng gặm đầy mồm cỏ ngọt mùa hè, chúng hất tung lên những nắm đất đen và hít hà
mùi vị ấm nồng của nó. Sau đó chúng đi kiểm tra một vòng khắp trang trại, chúng yên
lặng ngắm nhìn khu ruộng lúa, đồng cỏ, vuờn quả, ao cá, lùm cây. Chúng ngắm nhìn như
chưa từng nhìn thấy những thứ ấy bao giờ, và ngay cả lúc này chúng cũng chưa tin rằng
tất cả những thứ đó đã là của chúng.
Sau đó cả bọn lại cùng nhau quay về và yên lặng tập trung trước ngôi nhà chính. Dù ngôi
nhà này cũng đã thuộc về chúng nhưng chúng còn ngại, chưa dám vào ngay. Nhưng
Tuyết Tròn và Napoleon đã mau chóng lấy lại được bình tĩnh và dùng vai phá cửa, rồi
từng con lục tục, thận trọng bước vào, tránh không làm xáo trộn các đồ vật bên trong.
Chúng nhón gót đi từ phòng nọ sang phòng kia, thì thào, hồi hộp ngắm nhìn cảnh xa hoa
không thể nào tin được đang bày ra trước mắt, nào giường nệm lông vịt, nào gương soi,
nào ghế nệm lông ngựa, nào thảm nhung 4, rồi ảnh nữ hòang Vitoria [5] treo trên lò sưởi
trong phòng khách. Nhưng khi xuống đến bậc tam cấp thì chúng bỗng phát hiện ra là
thiếu mất Mollie. Chúng quay vào và thấy Mollie còn đứng trong căn phòng ngủ đẹp nhất
nhà. Hoá ra cô nàng đã lấy một dải ruy băng màu xanh trên bàn trang điểm của bà Jones,
vắt lên vai và đang thẫn thờ soi gương. Các con khác túm ngay lấy nó và lôi ra khỏi nhà.
Mấy cái đùi lợn muối treo trong bếp được đem đi chôn, thùng bia trong phòng rửa bát thì
bị Chiến Sĩ đá thủng, những thứ khác hầu như được giữ nguyên chỗ cũ. Một nghị quyết về việc giữ toà nhà chính làm viện bảo tàng được nhất trí thông qua ngay tại chỗ. Tất cả
đều đồng ý là không con nào có quyền sống trong toà nhà này.
Chúng đi ăn sáng và sau đó Tuyết Tròn và Napoleon mời tất cả tập trung.
"Thưa các đồng chí", Tuyết Tròn nói, "Bây giờ là bảy giờ rưỡi, chúng ta còn cả một ngày
nữa cơ. Hôm nay chúng ta sẽ bắt đầu cắt cỏ, nhưng chúng ta còn một việc phải làm trước
đã."
Thế là hai con lợn nói rằng nhờ những cuốn sách vỡ lòng của con ông Jones tìm được
trong đống rác mà suốt ba tháng qua chúng đã học và nay chúng đã biết đọc, biết viết.
Napoleon sai đi lấy một lọ sơn đỏ, một lọ sơn trắng rồi dẫn cả bọn đi ra cổng lớn. Tuyết
Tròn (vì nó là con viết đẹp nhất) kẹp cái chổi sơn giữa hai móng chân, xoá chữ Điền
Trang và viết chữ Trại Súc Vật lên cái thanh trên cùng của cánh cổng. Từ nay trở đi đấy
sẽ là tên chính thức của trại này. Sau đó cả bọn quay lại khu nhà, Tuyết Tròn và
Napoleon lại ra lệnh tìm một cái thang rồi dựng sát vào đầu hồi nhà kho. Chúng giải thích
rằng sau một thời kì khổ công nghiên cứu, ba tháng gần đây chúng đã đúc kết các luận
điểm của Súc Sinh Kinh thành Bảy Điều Răn. Bảy Điều Răn sẽ được kẻ lên tường và sẽ
là luật vĩnh viễn bất di bất dịch của tất cả các thành viên Trại Súc Vật. Tuyết Tròn leo lên
thang một cách khó nhọc (vì lợn khó giữ thăng bằng khi đứng trên thang) và bắt đầu viết,
trong khi Chỉ Điểm cầm hộp sơn đứng bên dưới mấy bậc. Các điều răn được viết bằng
sơn trắng trên bức tường quét hắc ín, đứng xa cả ba chục mét cũng đọc rõ. Nội dung như
sau:
BẢY ĐIỀU RĂN
Tất cả các loài hai chân đều là kẻ thù.
Tất cả các loài bốn chân hoặc có cánh đều là bạn.
Không con vật nào được mặc quần áo.
Không con vật nào được ngủ trên giường.
Không con vật nào được uống rượu.
Loài vật không được giết hại lẫn nhau.
Mọi con vật sinh ra đều bình đẳng.
Các chữ đều được viết rõ ràng và cả đoạn chỉ có hai lỗi chính tả mà thôi, đấy là chữ
"giường" bị viết thành "gưìơng" và một chữ S bị viết ngược. Tuyết Tròn đọc to lên cho
tất cả cùng nghe. Tất cả đều gật đầu đồng ý, những con thông minh hơn lập tức học thuộc
lòng các Điều Răn.
"Bây giờ, thưa các đồng chí'' Tuyết Tròn vừa ném cái chổi sơn xuống đất vừa gào lên,
"tất cả ra đồng cắt cỏ! Chúng ta phải thu hoạch nhanh hơn lão Jones và lũ gia nhân của
hắn.'' Đúng lúc đó thì ba con bò cái vốn cảm thấy khó chịu từ trước bỗng rống lên. Suốt hai
mươi bốn tiếng đồng hồ qua chúng chưa được vắt sữa, vú của chúng căng mọng như
muốn nổ ra đến nơi. Sau một chút đắn đo, lũ lợn sai mang xô tới và đã thực hiện công
việc khá thành thạo, chân chúng tỏ ra phù hợp với công việc này. Chẳng mấy chốc đã vắt
được năm xô đầy sữa béo, một số con tò mò đến xem.
"Làm gì với số sữa này nhỉ'', có con hỏi.
"Lão Jones thỉnh thoảng có trộn sữa vào thức ăn của chúng tôi đấy'', một chị gà mái lên
tiếng.
"Các đồng chí, để ý đến sữa làm gì!'', Napoleon vừa gào lên vừa bước ra đằng trước mấy
xô sữa, "Để đấy rồi tính sau. Thu hoạch quan trọng hơn. Đồng chí Tuyết Tròn sẽ dẫn đầu.
Tôi sẽ ra sau một lúc. Các đồng chí, tiến lên! Vụ thu hoạch đang cần chúng ta.''
Các con vật tiến ra cánh đồng và bắt đầu cắt cỏ, nhưng chiều về thì chúng không thấy
mấy xô sữa đâu nữa.
--------------------------------
2 Hạ chí: ngày 24 tháng 6.
3 News of the World - Tờ báo ra vào chủ nhật, thường đăng các tin giật gân, không mang
tính chất chính trị, phát hành 5 triệu bản mỗi số. Xuất bản từ năm 1843.
4 Nguyên văn the Brussels carpet - Thảm Brussels.
5 Nữ hoàng Anh trị vì từ năm 1837 đến năm 1901.
Chương 3
Phải công nhận là chúng làm việc rất chăm, không quản mệt mỏi, chỉ cốt thu hoạch ch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét